BẢO TÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG MỞ CỬA ĐÓN KHÁCH THAM QUAN VÀO CÁC NGÀY THỨ 3, THỨ 5 VÀ THỨ 7 HÀNG TUẦN 
SƯU TẦM CHUYÊN ĐỀ
PHÁT HIỆN BIA ĐÁ CỔ TẠI THÔN BÁ ĐẠI, XÃ TRÙNG KHÁNH HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG
07/10/2019 07:30:10

      Ngày 28 tháng 4 năm 2014 Bảo tàng tỉnh Hải Dương phối hợp với phòng Văn hóa - Thông tin huyện và UBND xã Trùng Khánh tiến hành khảo sát tấm bia nằm tại khu đất của gia đình ông Lê Tiến Đạo, sinh năm 1944, tại thôn Bá Đại, xã Trùng Khánh, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
      Tấm bia đá do ông Đàm Khắc Á người thôn Thanh Khơi, xã Trùng Khánh phát hiện năm 2011. Khi phát hiện bia và đế bia nằm dưới lòng sông, sau đó ông đã đưa lên trên khu đất của gia đình ông Lê Tiến Đạo thôn Bá Đại. Mảnh đất của ông Đạo nằm ở vị trí trung tâm thượng và hạ lưu sông Đĩnh Đào, nhưng con sông này hiện nay đã bị lấp chỉ còn một phần nhỏ được ngăn lại tạo thành hồ thả cá (hồ Bá Đại) của người dân địa phương do ông Vũ Xuân Hậu quản lý. Hiện tấm bia đã được đưa về Bảo tàng tỉnh Hải Dương lưu giữ và phục vụ công tác nghiên cứu.
      Bia được làm chất liệu đá nguyên khối hình tứ diện có kích thước cao 136cm, rộng mỗi cạnh 64cm. Đế bia hình vuông kích thước 112cm (chiều dài và rộng), cao 40cm, khắc 4 mặt chữ chân, khoảng 3000 chữ, nét chữ được khắc sâu. Chữ ghi tên bia tại các mặt được viết trong các ô có hình lá đề. Trán bia chạm “lưỡng long chầu nguyệt”, diềm xung quanh bia khắc rồng, chim thú, hoa cúc dây cách điệu, diềm dưới chạm “lưỡng mã hóa long” cách điệu. Hiện trạng: trán và cạnh bia đá (mặt thứ 4) sứt mẻ (dài 112cm, rộng 16cm). Bia được khắc: Ngày lành tháng tốt niên hiệu Chính Hòa triều Lê năm thứ 10 (1689). 
      Nội dung văn bia như sau:
      * Phiên âm:
      + Mặt 1: Mạo Xuyên thủy kiều bi ký.
Hải Dương, Sơn Nam đẳng xứ; Hạ Hồng, Thượng Hồng đẳng phủ; Gia Phúc, Đường An, Cẩm Giàng, Thiên Thi đẳng huyện; Đại Mạo, Bá Xuyên, Bá Thủy, Ty Minh, Cẩm Đới, Cẩm Cầu, Văn Khuê, Bao Trung, Phương Duy, Thượng Bì, Thanh Khai, Vâ Am, Hạ Bì, Lương Xá, Chuế Khê, Hương Anh, Mai Khê, Hoa Điếm, Kệ Gián, Khánh Đổ, An Lại, Điểm Chàng, An Tân đẳng xã.
Đương vị:
      Vương chính nhất sự, kiều thị vi tiên phúc điền đa phương quán ? năng thể thử ??? hữu hành ??nhân ?? kiến ??. Bá Xuyên, Đại Mại ? đại dô hộ, đại khứ lại huống thị Hải Dương. Hùng ? thời phù ? đệ nhất chi thắng địa dã. Tự thiên địa khai ??? Thượng Hồng, Hạ Hồng phủ sĩ, tín, vãi đẳng tự xuất tài vật, tâm phát bồ đề hưng côn tái tạo? Sứ dân công lập trụ ??? Ất Hợi niên nguyệt nhất nhật ??? tứ thập nhị cấp ??? thành kế nhị Bính tý niên chính nguyệt ?? tác lưỡng ?? thập lục gian quán ??? thiên địa???.Ư quốc thượng chúc!
      Hoàng đồ ? cố ? thế ?? chúc quý??? Phát nhân tâm thiện hành cập thiện nam tín nữ cộng ? công đức ngũ ? trù ?? thiên niên ?? thụ hồ! Thư tiến kim ? vu thạch dĩ truyền cập viễn giả tất ư bi hĩ!
      Minh viết: 
      Kiều tăng ngư vị
      Quán tổng đường minh 
      Mạo Bá thi cảnh
      Sơ thủy hữu tình
      Trấn phù quốc mạch
      Đạo đạt nhân hành
      Công hưng đức tích
      Phúc quý trường sinh
      Chế dục truyền?
      Bi lặc khắc minh.
      Vĩnh Lại huyện, Cụ Thị xã, quan viên hương lão thường hạ đẳng công đức sử tiền thập quan.
      Nhất hội chủ Đại Mạo xã, phủ sĩ Phạm Duy Chức, tự Phúc Đắc, thê Trần Thị Thủ sử tiền thập quan.
      Nhất hội chủ hưng công Bá Xuyễn xã, nguyên xã chánh Trần Tiến Vinh, tự Phúc Minh, Thê Cam Thị An, hiệu Diệu Trường sử tiền tam thập quan.
      Nhất hội chủ Tứ Minh xã, đại từ đại bi Đỗ Quế Quyển, tự Đạo Phú, hiệu Bảo Thiện, thê Nguyễn Thị Định, hiệu Diệu Nghiêm, Nguyễn Thị Tộ tiền thập ngũ quan.
      Nhất hội chủ Đại Mạo xã, phủ sĩ Phạm Hậu Đức, tự Huệ Cảnh, thê Nguyễn Thị Đào, hiệu Diệu Chính sử tiền thất thập quan.
      Mặt 2: Thiên hạ thái bình.
      Nhất hội chủ Vân Am xã, huyện sĩ Dương Tiến Lộc, hiệu Huyền Tiến, tự Phúc Hòa, thê Vũ Thị Kiều, hiệu Diệu Nghiêm ???.
      Nhất hội chủ Cẩm Đới xã, huyện sĩ Nguyễn Tiến Dao, tự Phúc Đa, thê Lê Thị Hệ, tiền tam quan. Nhất phương Duy xã, huyện sĩ Nguyễn Đức Nhân, tự Huyền Nghiêm, thê Phạm Thị An tiền tứ quan .
      Nhất hội chủ Phương Duy xã, huyện sĩ Chu Tiến Tài, tự Phúc Thịnh, thê Phạm Thị Bảo tiền tứ quan. Nhất Cẩm Đới xã, huyện sĩ Nguyễn Toàn Cung, tự Phúc Vinh, thê Vũ Thị Sùng tiền tam quan.
      Nhất hội chủ Tứ Minh xã, huyện sĩ Trần Tiến Đức, tự Phúc Tảo, thê Nguyễn Thị Ngọ, Đỗ Thị Hải tiền tam quan. Nhất Bá Xuyên, lão bà Nguyễn Thị Hương, hiệu Diệu Thành tiền tam quan.
      Nhất hội chủ Đại Mạo xã, lão bà Nguyễn Thị Sứ, hiệu từ Thái thập tiền . Nhất Hoa Điếm xã, thiện sĩ Nguyễn Văn Đôn, thê Kiều Thị Khuê tiền ngũ quan.
      Nhất hội chủ Bao Trung xã, Nguyễn Tất Ngôn, tự Phúc Kiêm, thê Đặng Thị Luật tiền tam quan. Nhất Cẩm Đới xã, thiện sĩ Vũ Hành Lộc, hiệu Huyền Thống, tự Phúc ?, thê Nguyễn Thị ? tiền tam quan.
      Nhất hội chủ Vân Am xã, thiện sĩ Vũ Công Tiến, hiệu Huyền Thái, tự Phúc Từ, thê Vũ Thị ?, hiệu Diệu Quang tiền nhị quan. Nhất Đại Mạo xã, thiện sĩ Nguyễn Cơ tiền nhị quan.
      Nhất hội chủ Bao Trung xã, thiện sĩ Vũ Đăng Biếm, thê Phạm Thị Nữ tiền nhị quan. Thiện sĩ Vũ Đăng Quyển, hiệu huyền Kính, tự phúc Trường, thê Đoàn Thị Duyên tiền tam quan. Nhất thiện sĩ Đặng Thăng Lộc, tự Phúc Thông, thê Nguyễn Thị Trạch, Trần Thị Phi tiền nhị quan. Thiện sĩ Vũ Chính Hòa, tự Huệ Thông, hiệu Huyền Trung, thê Nguyễn Thị Đặc, hiệu Diệu ? tiền nhị quan.
      Nhất hội chủ Mai Khê xã, thiện sĩ Tạ Như Tài, tự Phúc Thịnh, thê Nguyễn Thi ứng, hiệu Diệu Lạc tiền nhị quan.       Nhất Khánh Đổ xã, thiện sĩ Nguyễn ??, hiệu Huệ Vinh tiền nhị quan. 
      Nhất hội chủ Cẩm Đới xã, thiện sĩ Trần Văn Đỗ, tự Phúc Pháp tiền nhất quan. Thiện sĩ Nguyễn Cương Dụng, tự Phúc Thành, tiền nhất quan. ???
      Tín bà Nguyễn Thị Biểu, hiệu Từ Đức tiền nhất quan. Ngô Thị Hốt, hiệu Diệu Thanh tiền nhất quan. Nguyễn Thị Chính, hiệu Từ Diệu tiền nhất quan. ???
      Nhất hội chủ Hạ Bì xã, Bùi Đặc Danh, tự Phúc Huệ, thê Vũ Thị My tiền nhất quan. Hương Anh xã, thiện sĩ Lương Pháp Hưng, tự Chí Trung tiền nhất quan.
      Nhất hội chủ Phương Duy xã, thiện sĩ Phạm Văn Tốt, tự Phúc Đức, thê phạm Thị Mặc tiền nhất quan. Đoàn văn Kiêu, tự Phúc Minh, thê Bùi Thị Khảo tiền nhất quan. Vũ Đăng Khoa, tự Phúc Lộc, thê Phạm Thị Môn thất mạch. Vũ Công Định, tự Phúc Dụng tiền nhất quan.
      Nhất hội chủ Thượng Bì xã, thiện sĩ Vũ Đăng Tương, tự Phúc Khang, thê Vũ Thị Bi, hiệu Từ Thái tiền nhất quan. Thiện sĩ Vũ Đăng Thất, tự Phúc Đạo, thê Vũ Thị Trợ tiền nhất quan.
      Nhất hội chủ An Lại xã, thiện sĩ Nguyễn Tiến Vinh, hiệu Huyền Nghiêm, tự Phúc Lê, thê Vũ Thị Tộ, hiệu Từ Ngạn tiền nhất quan. 
      Nhất hội chủ Vân Am xã, thiện sĩ Vũ Do Thân, hiệu Phúc Vinh, thê Vũ Thị Thứ, hiệu Từ Tích tiền nhất quan. ???
      Mặt 3: Nam mô a di đà phật.
      Nhất hội chủ Văn Khuê xã, thị đặc an tử sơn yên, đặc sơn bá đạo đồ minh chân nhân ?? tiền thập quán. Nhất Đại Mão xã, phủ sĩ Nguyễn Tiến Lộc, tự Phúc Thiện tiền thập quan.
      Nhất hội chủ Cẩm Cầu xã, phủ sĩ Lê văn Tá, tự Phúc Trường, thê Trần Thị Thiền tiền thập quán. Nhất Đại Mạo xã, phủ sĩ Phạm văn Minh, tự Phúc Huệ, thê Nguyễn Thị Nguyệt tiền thập quán.
      Nhất hội chủ Cẩm Đới xã, phủ sĩ Phạm Đắc Dong, tự Phúc Tiến tiền cửu quan. Nhất Đại Mão xã, phủ sĩ Trần Văn Án, tự Phúc Lạc, thê Trần Thị Linh tiền thập quan.
      Nhất hội chủ Bá Xuyên xã, phủ sĩ Vũ Tá Triều, tự Phúc Độ, thê Trần Thị Kim tiền thập quan. Nhất Bá Xuyên xã, phủ sĩ Vũ Đắc Bá, tự Phúc Bình, thê Ngô Thị Kiến tiền cửu quan.
      Nhất hội chủ Cẩm Cầu xã, nguyên cai xã phủ sĩ Nguyễn Trùm Bả, tự Phúc Duyên, thê Trần Thị Phiên, hiệu Diệu Đa tiền thập quán.
      Nhất hội chủ Thanh Khai xã, phủ sĩ Nguyễn Ngọc Trinh, hiệu Huyền Thái, tự Phúc Nghiêm tiền thập quan. Hành sĩ Khang Lang, tự Phúc Lương, hiệu Tư Thiết tiền thập quan. Nhất hội chủ Chuế Khê xã, Phủ sĩ Phạm Đắc Tiến, tự Phúc Thọ, hiệu Huyền Thanh, thê Phạm Thị Thụy, hiệu Diệu Thất tiền thập quan.
      Nhất hội chủ Lương Xá xã, phủ sĩ Phạm Viết Hậu, hiệu Pháp Phú, tự Phúc Bùi, thê Nguyễn Thị Lương, hiệu Diệu Trinh, Nguyễn Thị Huệ, hiệu Diệu Tâm tiền thập quan.
      Nhất hội chủ Phương Duy xã, phủ sĩ Phạm Phú Tuất, tự Phúc Tây, thê Chu Thị Tứ, Trần Thị Xá tiền lục quan.
      Nhất hội chủ Vân Am xã, phủ sĩ Vũ Văn Sai, tự Phúc Độ, thê Dương Thị ?, hiệu Từ Đại tiền ngũ quan. Nhất Bá Thủy xã Nguyễn Đình Hệ, thê Nguyễn Thị Tình tiền ngũ quan.
      Nhất hội chủ Kệ Gián xã, Hậu Thần Mặc Thị Tra, hiệu Diệu Phương chân nhân tiền thập nhất quan. Giám sinh Phạm văn ?, thê Phạm Thị Đình tiền cửu quan.
      Nhất hội chủ Cẩm Đới xã, lão bà Trần Thị Nghiêu, hiệu Diệu Hảo chân nhân tiền thập quan. Nhất Hạ Bì xã, Hậu Thần Vũ Thị Hải, hiệu Diệu Đức tiền thập quan.
      Nhất hội chủ Thanh Khai xã, lão bà Đàm Thị Lai, hiệu Từ Hiền, tiền ngũ quan. Nhất Thiên Thi (Ân Thi) huyện, Điểm Tràng xã Nguyễn Thị Thái, hiệu Diệu Minh đồng đức đằng chân nhân tiền ngũ quan.
      Nhất hội chủ Đại Mạo xã, huyện sĩ Phạm Đăng Quang, tự Huyền Hi, thê Trần Thị Bình, hiệu Diệu Phú tiền ngũ quan. Nguyễn văn Sách, thê Nguyễn Thị Kiểm nhất quan.
      Nhất hội chủ Tứ Minh xã, huyện sĩ Vũ Thiên Tuế, tự Phúc Nghiêm, thê Vũ Thị Uyển, hiệu Diệu Minh tiền tam quan. Lỗi Dương xã, Nguyễn Bích Công nhất quan.
      Nhất hội chủ Thượng Bì xã, huyện sĩ Vũ Hữu Pháp, hiệu Huyền Lục, tự Phúc Khánh, thê Vũ Thị Tân, hiệu Từ Độ tiền ngũ quan.
      Nhất hội chủ Thượng Bì xã, huyện sĩ Vũ Minh Lâm, tự Phúc Khánh, thê Nguyễn Thị Phó, hiệu Từ Gia tiền tam quan
      Nhất hội chủ An Tâm xã, Nguyễn Cụ Khiêm, thê Trần Thị Động tiền tam quan. Nhất An Tân xã, huyện sĩ Vũ Công Tiên, tự Huyền Tân, thê Phạm Thị Chiên tiền ngũ quan.
      Mặt 4: Đế vạn vạn tuế thọ.
      Xã chánh (chính) Cam Thời Thông, thê Phạm Thị Khai tiền lục quan. Vũ Thông Tài, thê Phạm Thị Chiêm tiềm nhất quan. Cam Tá Giang, nam tử Cam Văn Đán, thê Phạm Thị Liệt tiền thất quan. Cam Tá Đán, thê Hoàng Thị Kim tiền nhất quan. Vũ Tiến ?, Thê Phạm Thị ? tiền nhất quan.
      Nhất công đức Đại Mạo xã, xã chánh Nguyễn Anh minh, thê Nguyễn Thị ? tiền nhất quan. Hoàng ? Năng, thê Trần Thị Canh tiền tam quan. Phạm Phẩm Bất tiền nhất quan. Phạm Tuấn Bích ??? tiền nhất quan. Phạm Đăng Quyển, thê Ngô Thị Tín tiền nhất quan. Phạm Đắc Lộc, thê Nguyễn Thị ? tiền nhất quan. Ngô Đắc Tài, thê Phạm Thị ???. Phạm Văn Thuần tiền nhất quan.
      Bao Trung xã, trị huyện ??? Tả, tự Phúc Cảnh, thê Đoàn Thị Cô, nam tử Giám sinh ???, thê Vũ Thị Hựu tiền ngũ quan. Nguyễn Thiên Xuân, thê Nguyễn Thị My tiền nhị quan,???. Lương Công Triều tiền lục quan, ???. Ngô Tư Quang tiền nhất quan.
      An Tân xã, Nguyễn Hưng Gia, nam tử Nguyễn Tằng ?, thê Nguyễn Thị ? tiền nhất quan.???. 
      Vân Am xã, xuân đường nam Vũ Quốc Kỷ ký.
      Lê triều Chính Hòa vạn vạn niên chi thập niên lương nguyệt cốc nhật.
      * Tạm dịch nghĩa:
      Mặt 1: Bia ghi lại việc làm cầu Mạo Xuyên.
      Các xứ Sơn Nam1, Hải Dương; các phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng; các huyện Gia Phúc (Gia Lộc), Đường An (Bình Giang), Cẩm Giàng, Thiên Thi (Ân Thi) và các xã: Đại Mạo, Bá Xuyên, Bá Thủy, Ty Minh, Cẩm Đới, Cẩm Cầu, Văn Khuê, Bao Trung, Phương Duy, Thượng Bì, Thanh Khai, Vân Am, Hạ Bì, Lương Xá, Chuế Khê, Hương Anh, Mai Khê, Hoa Điếm, Kệ Gián, Khánh Đổ, An Lại, Điểm Chàng, An Tân.
       Nói rằng:
      Nhiệm vụ của các bậc vương giả, việc đầu tiên phải nghĩ đến là bắc cầu cho dân đi lại. Bá Xuyên, Đại Mại là vùng đất đô hội, là nơi qua lại của dân Hải Dương. Cầu trước đây đã có nhưng qua nhiều biến cố lên đã hư hại, nay quan lại, thiện sĩ cùng tín vãi của hai phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng cũng xuất tài vật, phát tâm bồ đề hưng công tái tạo. Ngày, tháng Giêng năm Ất Hợi (1635) hoàn thành, cầu gồm có 42 bậc (tương đương nhịp); đến tháng Giêng năm Bính Tý (1636), lại hoàn thành 16 gian quán lớn ở hai bên cầu, tạo cho người và các phương tiện đi lại thuận lợi. Thật là viên mãn.???. Đây là việc tốt đáng chúc mừng.
      ??? cùng phát nhân tâm, thiện hành. Các thiện nam tín nữ cùng nhau công đức???. Sau ghi lại lên đá để truyền lại cho đời sau biết đến. Đó chính là bia vậy!
      Mới có bài minh rằng:
      Cầu tăng ngư phủ
      Quán lớn phong quang
      Mạo Bá là cảnh
      Sơn thủy hữu tình
      Trấn giữ quốc mạch
      Vừa lòng người qua
      Công đó tích đức
      Phúc ấy trường sinh
      Muốn để dài lâu
      Khắc minh vào đá.
      Xã Cụ Thị, huyện Vĩnh Lại, quan viên hương lão thượng đẳng công đức 10 sử tiền2.
      Hội chủ xã Đại Mạo, phủ sĩ Phạm Duy Chức, tên tự Phúc Đắc, vợ là Trần Thị Thủ 10 quan sử tiền.
      Hội chủ hưng công xã Bá Xuyên, nguyên là xã chánh (chính) Trần Tiến Vinh, tên tự Phúc Minh, vợ là Cam Thị An, tên hiệu là Diệu Trường 30 quan sử tiền.
      Hội chủ xã Tứ Minh, đại từ đại bi, Đỗ Quế Quyển, tên tự Đạo Phú, tên hiệu Bảo Thiện, vợ là Nguuyễn Thị Định, tên hiệu là Diệu Nghiêm, Nguyễn Thị Tộ 15 quan tiền.
      Hội chủ xã Đại Mạo, phủ sĩ Phạm Hậu Đức, tên tự Huệ Cảnh, vợ là Nguyễn Thị Đào, tên hiệu là Diệu Chính 70 quan sử tiền.
      Mặt 2: Thiên hạ thái bình.
      Hội chủ xã Vân Am, huyện sĩ Dương Tiến Lộc, tên hiệu là Huyền Tiến, tên tự là Phúc Hòa, vợ là Vũ Thị Kiều, tên hiệu là Diệu Nghiêm ???
      Hội chủ xã Cẩm Đới, huyện sĩ Nguyễn Tiến Dao, tên tự là Phúc Đa, vợ là Lê Thị Hệ, công đức 3 quan3 tiền. Xã Phương Duy, huyện sĩ Nguyễn Đức Nhân, tên tự Huyền Nghiêm, vợ là Phạm Thị An 4 quan tiền.
      Hội chủ xã Phương Duy, huyện sĩ Chu Tiến Tài, tên tự là Phúc Thịnh, vợ là Phạm Thị Bảo 4 quan tiền. Xã Cẩm Đới, huyện sĩ Nguyễn Toàn Cung, tên tự là Phúc Vinh, vợ là Vũ Thị Sùng 3 quan tiền.
      Hội chủ xã Tứ Minh, huyện sĩ Trần Tiến Đức, tên tự Phúc Tảo, vợ Nguyễn Thị Ngọ, Đỗ Thị Hải 3 quan tiền. Xã Bá Xuyên, lão bà Nguyễn Thị Hương, tên hiệu là Diệu Thành 3 quan tiền.
      Hội chủ xã Đại Mạo, lão bà Nguyễn Thị Sứ, tên hiệu là Từ Thái thập tiền. Xã Hoa Điếm, thiện sĩ Nguyễn Văn Đôn, vợ là Kiều Thị Khuê 5 quan tiền.
      Hội chủ xã Bao Trung là Nguyễn Tất Ngôn, tên tự Phúc Kiêm, vợ là Đặng Thị Luật 3 quan tiền. Xã Cẩm Đới, thiện sĩ Vũ Hành Lộc, tên hiệu là Huyền Thống, tên tự là Phúc ?, vợ là Nguyễn Thị ?. 3 quan tiền.
      Hội chủ xã Vân Am, thiện sĩ Vũ Công Tiến, hiệu Huyền Thái, tên tự là Phúc Từ, vợ là Vũ Thị ?, hiệu Diệu Quang 2 quan tiền. Xã Đại Mạo, thiện sĩ Nguyễn Cơ 2 quan tiền.
      Hội chủ xã Bao Trung, thiện sĩ Vũ Đăng Biếm, thê Phạm Thị Nữ 2 quan tiền. Thiện sĩ Vũ Đăng Quyển, tên hiệu là Huyền Kính, tên tự Phúc Trường, vợ Đoàn Thị Duyên 3 quan tiền. Thiện sĩ Đặng Thăng Lộc, tên tự Phúc Thông, vợ Nguyễn Thị Trạch, Trần Thị Phi 2 quan tiền. Thiện sĩ Vũ Chính Hòa, tên tự Huệ Thông, tên hiệu Huyền Trung, vợ là Nguyễn Thị Đặc, tên hiệu Diệu ? 2 quan tiền.
Hội chủ xã Mai Khê, thiện sĩ Tạ Như Tài, tên tự Phúc Thịnh, vợ Nguyễn Thị ứng, tên hiệu Diệu Lạc 2 quan tiền. Xã Khánh Đổ, thiện sĩ Nguyễn ??, tên hiệu Huệ Vinh 2 quan tiền.
      Hội chủ xã Cẩm Đới, thiện sĩ Trần Văn Đỗ, tên tự Phúc Pháp 1 quan tiền. Thiện sĩ Nguyễn Cương Dụng, tên tự là Phúc Thành 1 quan tiền.
      Tín bà Nguyễn Thị Biểu, tên hiệu Từ Đức 1 quan tiền. Ngô Thị Hốt, tên hiệu Diệu Thanh 1 quan tiền.
      Hội chủ xã Hạ Bì là Bùi Đặc Danh, tên tự Phúc Huệ, vợ là Vũ Thị My 1 quan tiền. Xã Hương Anh, thiện sĩ Lương Pháp Hưng, tên tự Chí Trung 1 quan tiền.
      Hội chủ xã Phương Duy, thiện sĩ Phạm Văn Tốt, tên tự là Phúc Đức, vợ là Phạm Thị Mặc 1 quan tiền ???. Đào Văn Kiêu, tên tự là Phúc Minh, vợ là Bùi Thị Khảo 1 quan tiền. Vũ Đăng Khoa, tên tự là Phúc Lộc, thê Phạm Thị Môn 7 mạch4. Vũ Công Định, tên tự Phúc Dụng 1 tiền.
      Hội chủ xã Thượng Bì, thiện sĩ Vũ Đăng Tương, tên tự Phúc Khang, vợ là Vũ Thị Bi, tên hiệu là Từ Thái 1 quan tiền. Thiện sĩ Vũ Đăng Thất, tên tự Phúc Đạo, vợ là Vũ Thị Trợ 1 quan tiền.
Hội chủ xã An Lại, thiện sĩ Nguyễn Tiến Vinh, hiệu huyền Nghiêm, tên tự Phúc Lê, vợ là Vũ Thị Tộ, tên hiệu là Từ Ngạn 1 quan tiền. 
      Hội chủ xã Vân Am, thiện sĩ Vũ Do Thân, tên hiệu là Phúc Vinh, vợ là Vũ Thị Thứ, tên hiệu là Từ Tích 1 quan tiền.
      Mặt 3: Nam mô a di đà Phật.
      Hội chủ xã Văn Khuê, Thị đặc an tử sơn yên, đặc sơn bá đạo đồ minh chân nhân ?? 10 quan tiền. Xã Đại Mạo, phủ sĩ Nguyễn Tiến Lộc, tên tự Phúc Thiện 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Cẩm Cầu, phủ sĩ Lê Văn tá, tên tự Phúc Trường, vợ là Trần Thị Thiền 10 quan tiền. Xã Đại Mạo, phủ sĩ Phạm Văn Minh, tên tự Phúc Huệ, vợ là Lê Thị Nguyệt 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Cẩm Đới, phủ sĩ Phạm Đắc Dong, tên tự Phúc Tiến 9 quan tiền. Xã Đại Mạo, phủ sĩ Trần văn Án, tên tự là Phúc Lạc, vợ là Trần Thị Linh 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Bá Xuyên, phủ sĩ Vũ Tá Triều, tên tự Phúc Độ, vợ là Trần Thị Kim 10 quan tiền. Xã Ba Xuyên, phủ sĩ Vũ Đắc Bá, tên tự Phúc Bình, vợ là Ngô Thị Kiến 9 quan tiền.
      Hội chủ xã Cẩm Cầu, nguyên là cai xã phủ sĩ Nguyễn Trùm Bả, tên tự Phúc Duyên, vợ là Trần Thị Phiên, tên hiệu là Diệu Đa 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Thanh Khai, phủ sĩ Nguyễn Ngọc Tring, tên hiệu Huyền Thái, tên tự Phúc Nghiêm 10 quan tiền.       Hành sĩ Khanh Lang, tên tự Phúc Lương, tên hiệu Tư Thiết 10 quan. Hội chủ xã Chuế Khê, phủ sĩ Phạm Đắc Tiến, tên tự Phúc Thọ, tên hiệu Huyền Thanh, vợ là Phạm Thị Thụy, tên hiệu Diệu Thất 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Lương Xá, phủ sĩ Phạm Viết Hậu, hiệu Pháp Phú,tên tự Phúc Bùi, vợ là Nguyễn Thị Lương, tên hiệu là Diệu Trinh, Nguyễn Thị Huệ, tên hiệu là Diệu Tâm 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Phương Duy, phủ sĩ Phạm Phú Tuất, tên tự Phúc Tây, vợ là Chu Thị Tứ, Trần Thị Xá 6 quan tiền.
      Hội chủ xã Vân Am, phủ sĩ Vũ Văn Sai, tên tự là Phúc Độ, vợ là Dương Thị ?, tên hiệu là Từ Đại 5 quan tiền. Xã Bá Thủy, Nguyễn Đình Hệ, vợ là Nguyễn Thị Tình 5 quan tiền.
      Hội chủ xã Kê Gián, Hậu Thần Mặc Thị Tra, tên hiệu là Diệu Phương chân nhân 11 quan tiền. Giám sinh5 Phạm Văn ?, vợ là Phạm Thị Đình 9 quan tiền.
      Hội chủ xã Cẩm Đới, lão bà Trần Thị Nghiêu, tên hiệu là Diệu Hảo chân nhân 10 quan tiền. Xã Hạ Bì, Hậu Thần Vũ Thị Hải, tên hiệu là Diệu Đức 10 quan tiền.
      Hội chủ xã Thanh khai, lão bà Đàm Thị Lai, tên hiệu là Từ Hiền 5 quan tiền. Xã Điểm Tràng, huyện Thiên Thi (Ân Thi), bà Nguyễn Thị Thái, tên hiệu là Diệu Minh đồng đức đằng chân nhân 5 quan tiền.
      Hội chủ xã Đại Mạo, huyện sĩ Phạm Đăng Quang, tên tự là Huyền Hi, vợ là Trần Thị Bình, tên hiệu là Diệu Phú 5 quan tiền. Nguyễn Văn Sách, vợ là Nguyễn Thị Kiểm 1 quan tiền.
      Hội chủ xã Tứ Minh, huyện sĩ Vũ Thiên Tuế, tên tự là Phúc Nghiêm, vợ làVũ Thị Uyển, tên hiệu là Diệu Minh 3 quan tiền. Xã Lỗi Dương, Nguyễn Bích Công 1 quan tiền.
      Hội chủ xã Thượng Bì, huyện sĩ Vũ Hữu Pháp, tên hiệu là Huyền Lục, tên tự là Phúc Khánh, vợ là Vũ Thị Tân, tên hiệu là Từ Độ 5 quan tiền.
      Hội chủ xã Thượng Bì, huyện sĩ Vũ Minh Lâm, tên tự Phúc Khánh, vợ là Nguyễn Thị Phó, tên hiệu là Từ Gia 3 quan tiền.
      Hội chủ xã An Tâm, Nguyễn Cụ Khiêm, vợ là Trần Thị Động 3 quan tiền. Xã An Tân, huyện sĩ Vũ Công Tiên, tên tự là Huyền Tân, vợ là Phạm Thị Chiên 5 quan tiền. 
      Mặt 4: Hoàng Đế thọ muôn tuổi.
      Xã chánh (chính)6 Cam Thời Thông, vợ là Phạm Thị Khai 6 quan tiền. Vũ Thông Tài, thê Phạm Thị Chiêm 1 quan tiền. Cam Tú Giang, con trai là Cam Văn Đán với vợ là Phạm Thị Liệt 7 quan tiền. Cam Tá Đa, vợ Hoàng Thị Kim 1 quan tiền. Vũ Tiến ?, vợ là Phạm Thị ? 1 quan tiền.
      Xã Đại Mạo công đức: Xã chính (chánh) Nguyễn Anh Minh, vợ Nguyễn Thị ? 1 quan tiền. Hoàng ? Năng, vợ Trần Thị Canh 3 quan tiền. Phạm Phẩm Bất 1 quan tiền. Phạm Tuấn Bích ??? 1 quan tiền. Phạm Đắc Lộc, vợ Nguyễn Thị ? 1 quan tiền. Ngô Đức Tài, vợ Phạm Thị ???. Phạm Văn Thuần 1 quan tiền.
      Xã Bao Trung, tri huyện7? Tả, tên tự Phúc cảnh, vợ là Đoàn Thị Cô, con trai là Gám sinh ???, vợ Vũ Thị Hựu 5 quan tiền. Nguyễn Thiên Xuân, vợ là Nguyễn Thị My 2 quan tiền. ???. Lương Công Triều 6 quan tiền. ???. Ngô Tư Quang 1 quan tiền.
      Xã An Tân, Nguyễn Hưng Gia, con trai Nguyễn Tằng ?, vợ Nguyễn Thị ?? 1 quan tiền.
      Xã Vân Am, Vũ Quốc Kỷ, tước Xuân đường nam viết.
      Ngày lành tháng tốt niên hiệu Chính Hòa triều Lê năm thứ 10 (1689) của vạn vạn năm!
      Nhận xét bước đầu: 
      Căn cứ kết quả khảo sát và nội dung văn bia, Bảo tàng Hải Dương xác định tấm bia được tạo dựng năm 1689, cách ngày nay 325 năm, nội dung: ghi việc bắc dựng lại một cây cầu lớn qua sông thuộc địa phận hai thôn Hữu Ngạn là làng Bá Xuyên, Tả Ngạn là làng Đại Mạo và ghi những người công đức xây dựng cầu và quán hai bên đầu cầu.       Qua đó chúng ta có thể biết về tình hình kinh tế, sự quan tâm của chính quyền địa phương đối với giao thông đương đại cũng như lịch sử vùng đất nơi đây từ cuối thế kỷ 17. Đây là tấm bia đẹp về nghệ thuật điêu khắc đá.
      * Chú thích: 
      - (1): Xứ Sơn Nam: Tức tỉnh Nam Định ngày nay.
      - (2): Sử tiền: tiền tiêu dùng thường ( một quan sử tiền = 10 tiền = 360 đồng tiền).
      - (3) Quan: Tức quan (một quan cổ tiền = 10 tiền = 600 đồng tiền).
      - (4) Mạch: tức tiền (một cổ tiền ăn 60 đồng tiền, còn một sử tiền chỉ ăn 36 đồng).
      - (5): Giám sinh: Học sinh ở Quốc Tử Giám. Bắt đầu có từ thời Đường Nguyên Hòa thứ 2 (807).
      Thời Tống theo vậy, năm Khánh Lịch thứ 4 (1044), Quốc Tử Giám chiêu tập sinh viên gọi là Giám sinh.
      Thời Nguyễn những học sinh thường đã đổ Cử nhân chuẩn bị thi Hội, vào Quốc Tử Giám học. Không kể hai loại đặc cách làm Giám sinh là Tôn Sinh và Ấm sinh.
      - (6): Xã chánh (chính): Xã quan định tháng 2 năm Nhâm Dần (1242) đời vua Trần Thái Tông.
      Cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan.
      Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1428) đặt xã quan, xã lớn 100 người trở lên đặt 3 người, xã vừa 50 người trở lên đặt 2 người, xã nhỏ 10 người trở lên đặt 1 người.
      - (7): Tri huyện: Trưởng quan cấp huyện thời Nguyễn.
      Thời Tống, Nguyên đặt là trưởng quan Khu mật viện. Thời Liêu là tá quan của Nam Khu mật viện, địa vị ở dưới Tri khu mật sứ sự.
      - ??? : Dấu hỏi chấm thể hiện những chữ Hán mờ không đọc được.
Hoàng Thị Phương Lan, Hoàng Thị Hương
Về Trang Chủ
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BẢO TÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG
Địa chỉ : 11 Hồng Quang - P.Nguyễn Trãi -TP Hải Dương - Tỉnh Hải Dương
Điện thoại :(0220)3852493
Chịu trách nhiệm xuất bản: Trưởng Ban biên tập: Bà Nguyễn Thị Huê- Giám đốc
Số lượt truy cập
Đang truy cập: 2
Hôm nay: 105
Tháng này: 8,741
Tất cả: 89,501